Việt Nam nỗ lực chung tay cùng thế giới loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn

Việt Nam đang trên con đường tiến tới nền kinh tế các-bon thấp và tăng trưởng “xanh”, việc loại trừ các chất HCFC có tiềm năng nóng lên toàn cầu cao là một hành động góp phần thực hiện mục tiêu trên. Bên cạnh đó, với các hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và chuyển giao công nghệ từ khi tham gia Nghị định thư Montreal, Việt Nam sẽ thực hiện được mục tiêu trên thông qua loại trừ các chất HCFC không phải bỏ ra một khoản kinh phí nào trong hoàn cảnh ngân sách còn eo hẹp.

Suy giảm tầng ô-dôn và yêu cầu về loại trừ các chất HCFC

Công ước Vienna về Bảo vệ tầng ô-dôn và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn thuộc Công ước Vienna được các nước ký kết vào năm 1987 là văn bản pháp lý toàn cầu ràng buộc trách nhiệm các quốc gia trên thế giới bảo vệ tầng ô-dôn. Cho đến nay đã có 197 quốc gia phê duyệt Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal cùng các bản sửa đổi, bổ sung của Nghị định thư Montreal về kiểm soát và loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn.V iệt Nam đã gia nhập và là thành viên đầy đủ của Công ước Vienna về bảo
vệ tầng ô-dôn, Nghị định thư Montreal và các Bản sửa đổi, bổ sung thuộc Nghị định thư như Bản sửa đổi, bổ sung London, Copenhagen vào năm 1994, Bản sửa đổi, bổ sung Montreal và Bắc Kinh vào năm 2004.

Các chất HCFC không phải là các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, tuy nhiên, các chất HCFC là các chất khí nhà kính và được sử dụng để thay thế cho các chất làm suy giảm tầng ô-dôn. Các nước thành viên Nghị định thư Montreal đã quyết định kiểm soát và loại trừ các chất HCFC trong khuôn khổ Nghị định thư Montreal để giúp tránh cho nhiệt độ Trái Đất gia tăng 0,5 vào cuối thế kỷ này, góp phần giảm nhẹ phát thải khí nhà kính gây biến đổi khí hậu toàn cầu. Loại trừ các chất HCFC sẽ giúp giảm phát thải hàng triệu tấn CO2 ở Việt
Nam, giúp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Các doanh nghiệp sử dụng HCFC sẽ chuyển đổi sang sử dụng công nghệ có hiệu suất cao hơn, nhờ đó giúp giảm phát thải gián tiếp CO2.

Là một quốc gia đang phát triển, chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam sớm phê duyệt Bản sửa đổi, bổ sung Kigali là cần thiết. Việt Nam tham gia loại trừ các chất HCFC là phù hợp với xu thế chung của thế giới, đồng thời phù hợp với định hướng chiến lược của Việt Nam, coi vấn đề biến đổi khí hậu là vấn đề cần ưu tiên giải quyết. Khi phê duyệt Bản sửa đổi, bổ sung Kigali, Việt Nam sẽ có quyền nhận hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật để loại trừ các chất HCFC. Các doanh nghiệp sử dụng các chất HCFC trong nước sẽ được hỗ trợ tài chính và tiếp cận công nghệ thay thế thân thiện hơn với môi trường và có hiệu suất cao hơn, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Người sử dụng các thiết bị làm lạnh sẽ được tiếp cận với các sản phẩm thân thiện với môi trường và tiết kiệm năng lượn

Thành công từ Dự án loại trừ HCFC giai đoạn I

Từ năm 1994, Việt Nam đã phê chuẩn tham gia Công ước Vienna về Bảo vệ tầng ô-dôn và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn của Công ước Vienna. Theo đó Việt Nam là một nước đang phát triển thuộc Điều 5 của Nghị định thư Montreal, có nghĩa vụ loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo lộ trình được quy định, đồng thời có quyền được nhận hỗ trợ tài chính và công nghệ từ Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư thông qua các dự án do các tổ chức quốc tế được Quỹ Đa phương uỷ thác để thực hiện các hoạt động loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn.

Bộ TN&MT là cơ quan được Chính phủ giao chủ trì thực hiện Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn và Cục BĐKH, tiền thân là Cục Khí tượng Thủy văn và BĐKH là đơn vị được Bộ TN&MT giao trách nhiệm đầu mối tổ chức và điều phối các hoạt động thực hiện Nghị định thư Montreal ở Việt Nam.

Thực hiện nhiệm vụ đầu mối được giao, Cục BĐKH đã chủ trì triển khai thành công Dự án Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam, giai đoạn I với kết quả chính là loại trừ tổng số lượng 1.274.6 tấn HCFC-141 (trong đó có 462 tấn HCFC-141b nguyên chất và 812,6 tấn HCFC-141b trộn sẵn trong polyol). Đồng thời, đã ban hành được các chính sách về kiểm soát các chất HCFC gồm: Thông tư liên tịch số 47/2011/TTLT-BCT-BTNMT ngày 30/12/2011 quy định việc quản lý nhập khẩu, xuất khẩu và tạm nhập – tái xuất các chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo quy định của Nghị định thư Montreal; Văn bản số 132/BTNMT-HTQT ngày 16/01/2014 về việc thực hiện các biện pháp giảm cầu về các chất HCFC ở Việt Nam; Văn bản số 1477/KTTVBĐKH-GSPT ngày 29/12/2014 về việc chấm dứt hoàn toàn nhập khẩu, xuất khẩu HCFC-141b kể từ ngày 01/01/2015. Bên cạnh đó, đã xây dựng phần mềm hệ thống quản lý thông tin xuất nhập khẩu HCFC; biên soạn sách hướng dẫn lắp đặt, bảo dưỡng, sửa chữa điều hòa không khí gia dụng, thiết bị lạnh công nghiệp và điều hòa không khí trung tâm; hướng dẫn, đào tạo cho các cơ quan, tổ chức về: Kiểm soát xuất nhập khẩu các chất HCFC; giảm sử dụng HCFC và thiết bị có sử dụng HCFC; thực hành tốt khi sửa chữa, bảo dưỡng thiết bị lạnh và điều hòa không khí, giảm phát thải HCFC ra môi trường; kỹ thuật an toàn trong quá trình sản xuất theo công nghệ mới; cách phòng tránh bệnh nghề nghiệp và biện pháp an toàn khi sử dụng cyclo-pentane.

Khởi động Dự án Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam giai đoạn II

Trong bối cảnh Việt Nam tiếp tục loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo lộ trình đã được quy định, việc triển khai Dự án Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam giai đoạn II (Dự án HPMP II) không chỉ thực hiện cam kết của Việt Nam đối với Nghị định thư Montreal, mà còn góp phần thực hiện các chủ trương, chính sách, chiến lược của Đảng, Nhà nước và của ngành TN&MT đã ban hành.

Cục BĐKH, Bộ TN&MT tiếp tục được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và Ngân hàng Thế giới thực hiện dự án với mục tiêu hỗ trợ Việt Nam loại trừ hoàn toàn tiêu thụ các chất HCFC ở Việt Nam theo đúng lộ trình loại trừ các chất này do Nghị định thư Montreal quy định, bảo đảm để Việt Nam tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên thi hành Nghị định thư Montreal.

Hiệp định tài trợ giữa Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới được chính thức ký kết ngày 07/3/2019. Đến nay, các hoạt động trong khuôn khổ Dự án đã và đang được tích cực triển khai thực hiện. Cụ thể: Dự án sẽ nhằm các mục tiêu: (i) Loại trừ hoàn toàn tiêu thụ 1.000 tấn HCFC-22 trong lĩnh vực sản xuất điều hòa không khí gia dụng, lĩnh vực làm lạnh, sản xuất xốp XPS và lĩnh vực dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng thiết bị lạnh; (ii) Loại trừ hoàn toàn tiêu thụ HCFC-141b trộn sẵn trong polyol trong lĩnh vực sản xuất xốp cách nhiệt; (iii) Bảo đảm để Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ giảm 35% mức tiêu thụ cơ sở các chất HCFC từ năm 2020 đến năm 2024; (iv) Giảm lượng phát thải khí nhà kính từ việc sử dụng các công nghệ thay thế không có tiềm năng làm suy giảm tầng ô-dôn (ODP) và tiềm năng làm nóng lên toàn cầu (GWP) thấp và cải thiện hiệu suất năng lượng trong lĩnh vực làm lạnh và điều hòa không khí; (v) Tăng cường kiểm soát xuất, nhập khẩu các chất HCFC và tuyên truyền phổ biến các công nghệ không sử dụng HCFC trong tất cả các lĩnh vực liên quan; (vi) Hoàn thành xây dựng văn kiện Dự án Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam giai đoạn III (2023 – 2030) trình Quỹ Đa phương xem xét tài trợ cho việc loại trừ hoàn toàn tiêu thụ các chất HCFC ở Việt Nam.

Tại Hội thảo khởi động dự án, ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH cho biết, dự án được thực hiện trong giai đoạn 2018 – 2023 nhằm loại trừ 35% mức tiêu thụ cơ sở các chất HCFC. “Dự án sẽ hỗ trợ hơn 80 doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ nhằm đạt mục tiêu loại trừ tiêu thụ 1.000 tấn HCFC-22 và loại trừ hoàn toàn HCFC-141b trộn sẵn trong polyol trong sản xuất xốp cách nhiệt; tăng cường năng lực cho các cơ quan QLNN về quản lý, loại trừ các chất HCFC; nâng cao nhận thức của các ngành, người dân và các bên liên quan về loại trừ các chất HCFC ở Việt Nam.” .

Trong thời gian tới, cùng với việc tiếp tục loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, Bộ TN&MT sẽ phối hợp với các Bộ, ngành và các bên liên quan để triển khai loại trừ các chất HFC. Để thực hiện điều này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp có sử dụng các chất HFC cũng như tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của các tổ chứ, cá nhân về sự cần thiết loại trừ các chất HFC, giúp giảm nhẹ BĐKH và phát triển bền vững.

MINH TRÍ